Đề 2: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Những
người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu
Cặp
vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót
ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín
mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương
Những
con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người
học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con
Cóc, con Gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những
người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm
Và
ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng
mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi!
Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những
cuộc đời đã hoá núi sông ta
ĐÁP
ÁN- HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Mở bài
Hình ảnh đất nước đã khơi nguồn cảm
hứng vô tận cho biết bao thi sĩ cách mạng để sáng tạo nên những vần thơ đẹp
tuyệt vời. Chế Lan Viên nhìn suốt chiều dài lịch sử oanh liệt để khẳng định: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”. Lê
Anh Xuân đã tạc vào thơ một dáng đứng Việt Nam với hình ảnh “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Tố
Hữu với hình ảnh đất nước sáng ngời “Ôi
Việt Nam từ trong biển máu. Người vươn lên như một thiên thần”. Với chương
“Đất nước” trong Trường ca “Mặt đường khát vọng” (1974), Nguyễn Khoa
Điềm đã nói lên những cảm nhận sâu sắc về đất nước, về nhân dân, về dân tộc và
trách nhiệm lớn lao của tuổi trẻ Việt Nam trước non sông đất nước.
Thân bài
Phân tích, bình giảng đoạn thơ
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm
Nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 ở Thừa Thiên Huế, là con nhà phê bình văn
học Hải Triều, một nhà phê bình xuất sắc đã từng chủ trì lí thuyết “nghệ thuật vị nhân sinh” trong cuộc
tranh luận với Hoài Thanh 1936-1939. “Đất
nước” được trích trong trường ca “Mặt
đường khát vọng” (1974). Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ
sinh viên, học sinh các đô thị tạm chiếm miền Nam trước 1975, trước vận mệnh
hiểm nghèo của đất nước; kêu gọi họ hướng về nhân dân, xuống đường đấu tranh
hoà nhập với cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Trong các nhà thơ trẻ thời
chống Mĩ, thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, thể hiện một
chiều sâu văn hoá, đặc trưng của các nhà thơ thời kì chống Mĩ cứu nước đã có
một hành trang văn hoá chuẩn bị khá chu đáo trước khi bước vào chiến trường.
Chương “Đất nước” khai triển có vẻ phóng túng, tự do như một bài tuỳ bút
bằng thơ nhưng thực ra tứ thơ vẫn tập trung thể hiện tư tưởng “Đất nước của
nhân dân” qua các bình diện chủ yếu sau đây:
- Đất
nước trong chiều dài thời gian lịch sử
-
Đất nước trong chiều rộng không gian lãnh thổ địa lí.
-
Đất nước trong bề sâu truyền thống văn hoá, phong tục, lối sống, tâm hồn, cốt
cách dân tộc.
Tư
tưởng “Đất nước của nhân dân” là một
tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca thời đại cách mạng. Đoạn trích bình giảng trên
đây đã thể hiện một cách sâu sắc và cụ thể sự “hoá thân” của nhân dân vào đất nước muôn đời.
2.
Để nói lên công lao to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước,
nhà thơ đã nhắc đến những danh lam thắng cảnh, những tên đất, tên làng trên mọi
miền đất nước từ Bắc chí Nam. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn thấy hình sông, thế núi
là sự kết tinh đời sống tâm hồn của nhân dân. Xuất phát từ quan điểm của nhà
Phật (hoá thân), tác giả đã trình bày những cảm xúc, suy tưởng của mình: chính
nhân dân đã hoá thân thành đất nước “hoá
thân cho dáng hình xứ sở”, làm nên đất nước vĩnh hằng. Những danh lam thắng
cảnh không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa mà đã được cảm nhận
thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những
đóng góp của nhân dân, sự hoá thân của những con người không tên, không tuổi…
3.
Với nghệ thuật sâu sắc, từ ngữ giàu hình ảnh gợi cảm, tác giả đã viết lên những
hình tượng sinh động, giàu sức khái quát. Từ hình sông, thế núi, từ truyền
thống, tác giả đã tạo nên những liên tưởng độc đáo thú vị giúp người đọc cảm
nhận công lao to lớn của nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4.
Tư tưởng “Đất nước của nhân dân”
khiến cho những địa danh ngàn đời của Tổ quốc, qua cái nhìn sắc sảo đầy khám
phá của nhà thơ biến thành sự hoá thân của những con người bình dị vô danh; “những con người không ai nhớ mặt đặt tên
nhưng họ đã làm ra đất nước”
“Những người vợ … hòn Trống Mái”
Những
địa danh, những hình sông thế núi mang hồn người, hồn dân tộc. Chúng là sự
tượng hình, kết tinh đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân mang đậm chủ nghĩa
nhân văn, nhân đạo Việt Nam. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái là kết tinh tình yêu
chung thuỷ của biết bao người vợ, người chồng trong chiến tranh liên miên, của
sự gắn kết muôn đời, bất chấp mọi bão tố của thời gian:
“Không hoá thạch kẻ ra đi mà hoá thạch kẻ
đợi chờ
… Đợi một dáng hình trở lại giữa
đơn cô”
(Chế
Lan Viên)
5.
Tác giả không chỉ chiêm ngưỡng những hình ảnh núi Bút, non Nghiên mà còn nhìn
ra trong đó phẩm chất truyền thống hiếu học của dân tộc ta từ bao đời nay.
Những núi Bút, non Nghiên phô bày vẻ đẹp mĩ lệ giữa đất trời nước Việt hay là
hình tượng những người học trò nghèo đã gửi gắm quyết tâm, ước vọng của mình
vào đấy?
6.
Nhà thơ đã tìm về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc dáng hình đất nước. Những hình
ảnh thân thuộc của non sông đất nước gợi lên quá khứ hào hùng đánh giặc ngoại
xâm oanh liệt của nhân dân ta qua truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi
giặc Ân, với sự nghiệp dựng nước đầy gian lao của vua Hùng:
“Gót
ngựa Thánh Gióng… đất tổ Hùng Vương”
Cho
đến “những con rồng nằm im” cũng góp
phần làm nên “dòng sông xanh thẳm”:
con cóc, con gà quê hương cũng góp cho “Hạ
Long thành thắng cảnh”. Và cả những địa danh thật nôm na bình dị “Những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”,
Nguyễn Khoa Điềm đã đặt cái nhìn trân trọng của mình vào nhân dân không tên
không tuổi “những người dân nào”
không ai biết cũng làm nên tên núi, tên sông, tất cả những cái bình thường
trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân cũng hóa thân thành dáng hình xứ sở.
7.
Tính khái quát của hình tượng thơ cứ được nâng dần lên. Đó là hình dáng của tư
thế, truyền thống Việt Nam, truyền thống Việt Nam, truyền thống văn hiến của
dân tộc có bốn ngàn năm lịch sử. Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi chẳng
mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống cha ông.
Hình tượng thơ càng được nâng dần
lên và chốt vào câu thơ đầy chất trí tuệ:
“Ôi
Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những
cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
Kết
luận:
Đoạn
thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và được viết theo thể tự do, câu thơ mở rộng
kéo dài nhưng không nặng nề mà biến hóa linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu sức
biểu hiện và khái quát – đó là hình ảnh đất nước của nhân dân. Nhân dân đã hóa
thành đất nước. Bởi trên khắp ruộng đồng, gò, bãi, núi, sông đâu đâu cũng là
hình ảnh của văn hóa, của lịch sử, của đời sống tâm hồn, cốt cách Việt Nam.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét