Câu 1.1: Truyện ngắn “Chí
Phèo” của Nam Cao và truyện ngắn “Vợ
nhặt” của Kim Lân đều viết về tình cảnh những người nông dân trước Cách
mạng tháng Tám 1945.
a) Phân tích những khám phá riêng của mỗi tác giả về số
phận và những cảnh ngộ của người nông dân trong mỗi tác phẩm.
b) Chỉ ra sự khác nhau trong cách
kết thúc của hai thiên truyện. Giải thích vì sao có sự khác nhau ấy. Nêu ý
nghĩa của mỗi cách kết thúc.
c) Phân tích nét đặc sắc
trong tư tưởng nhân đạo của mỗi tác phẩm..
Bài làm
Văn
học phản ánh hiện thực cuộc sống và chính vì vậy mà ta thấy có một đề tài đã
trở nên quá quen thuộc trong văn học: đề tài về số phận, tình cảnh của người
nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đã có rất nhiều tác phẩm cho thấy cái
nghèo khổ của người nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Nhưng có lẽ đến
Nam Cao người ta mới thấy được cái nỗi khổ tột cùng ấy, nỗi khổ của một số phận
bị chà đạp, mất hết cả nhân hình nhân tính, nỗi khổ vì bị cự tuyệt quyền làm
người. Và đến ““Vợ nhặt” của Kim Lân
là nỗi khổ của những thân phận rẻ rung trong cái đói cái nghèo. Thành công của
hai tác phẩm không chỉ ở đề tài mà là ở sự phát hiện cái mới, cái riêng chưa hề
có trong văn học. Dù mỗi tác phẩm có một hướng đi khác nhau, nhưng quy tụ lại
vẫn là để nói sao cho được hết cái số phận nghèo khổ, cảnh ngộ bần cùng của người
nông dân bằng những tấm lòng nhân đạo cao cả nhất.
A. “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố và “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan
ra đời đã nói lên được nỗi thống khổ của người nông dân trong xã hội cũ. Nhưng
người ta nói rằng phải đến khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách thì
nỗi khổ ấy mới được tái hiện một cách đầy đủ nhất.
“Chí Phèo” được
xem như kiệt tác của Nam Cao, viết vào năm 1941. Tác phẩm ra đời gây một tiếng
vang lớn, đưa Nam Cao lên đến đỉnh cao của thành công nghệ thuật. Bởi bản thân
tác phẩm mặc dù đi theo đề tài cũ song lại có một sự khám phá mới mẻ. Khám phá
về cuộc sống của người nông dân trong tận cùng nỗi khổ, trong bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người, khao khát ước mơ một cuộc sống lương thiện, nhưng lại bị
chà đạp tàn bạo về nhân phẩm khiến người không được làm người, mà biến thành
quỷ, bị xã hội xa lánh.
Cùng
một đề tài về người nông dân, song Kim Lân lại tìm cho mình một hướng đi khác.
Trong tác phẩm “Vợ nhặt” ta thấy được
hình ảnh khốn cùng của người nông dân trong nạn đói 1945, thân phận bị rẻ rúng,
cái chết cận kề, song họ vẫn khao khát, ước mơ và hi vọng.
Như
vậy cái chung của hai tác phẩm là đều viết đề tài người nông dân trước Cách
mạng tháng Tám 1945, song mỗi tác phẩm lại có sự khám phá riêng về số phận và
cảnh ngộ của người nông dân.
Đọc
xong tác phẩm “Chí Phèo”, ta thấy
không khỏi xót thương cho thân phận người nông dân. Nhìn toàn bộ khung ảnh của
nông thôn Việt Nam lúc đó như một “khu
vườn hoang cuối mùa” mà ở đó người nông dân phải chịu sự hà hiếp đục khoét
của bọn cường hào. Bọn cường hào địa chủ trong làng dùng những thủ đoạn dã man
đẩy người nông dân vào bước đường cùng không lối thoát. Như Năm Thọ, Binh Chức
và đến Chí Phèo đều là các nạn nhân của những thủ đoạn tàn bạo ấy. Năm Thọ,
Binh Chức là người hiền lành nhưng ở tù về đều trở thành kẻ lưu manh, biến
chất. Chí Phèo cũng vậy, từ một nông dân khỏe mạnh, một con người có ước mơ,
khát khao giản dị: một gia đình chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải. Nhưng rồi
cái ước mơ nhỏ bé và chính đáng ấy cũng không bao giờ thực hiện được. Từ một
thanh niên khỏe mạnh đi làm canh điền cho nhà Bá Kiến, Chí Phèo đã trở thành
một tên lưu manh tha hóa biến chất. Đó là kết quả của nhà tù thực dân, mà người
trong làng không hiểu vì sao Chí Phèo phải đi ở tù. Chỉ biết rằng sau những lần
bị bà ba Bá Kiến sai làm việc không chính đáng, cụ Bá biết được và Chí Phèo
bỗng nhiên phải đi ở tù để rồi về làng với diện mạo của một con quỷ dữ, mất cả
nhân hình nhân tính. “Trông hắn đặc như
thằng săng đá, đầu cạo trọc lốc, răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất
cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Với diện mạo ấy, Chí Phèo đã
bị xã hội gạt bỏ. Nỗi khổ đầu tiên là nỗi khổ bị con người xa lánh. Chí Phèo ra
tù về làng đã cất lên tiếng chửi, tiếng chửi ấy dù có thô tục đến đâu song nó
vẫn là tiếng thổn thức khát khao giao hòa nơi cuộc sống con người của Chí mà
nhà văn muốn nói với chúng ta. Nhưng người làng Vũ Đại ngoảnh mặt đi với Chí. “Hắn chửi trời, trời chẳng của riêng nhà
nào, hắn chửi đời, đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay
tất cả làng Vũ Đại. Nhưng ai cũng nghĩ : “ Chắc nó trừ mình ra!”. Vậy là
con người không thèm ném cho hắn dù chỉ là một tiếng chửi để rồi người đời thấy
đau xót khi nghe hắn chửi cả “người đẻ ra
hắn”.
Nỗi
khổ của người nông dân trong tác phẩm được nói đến từ nhiều khía cạnh, Chí Phèo
khổ vì bị mọi người xa lánh, để rồi cuộc đời khi ra tù của hắn chỉ có một nghề
là rạch mặt ăn vạ. Nhưng khi viết về nhân vật Thị Nở , Nam
Cao cũng cho chúng ta thấy đó là nỗi khổ của người nông dân với cái hình thức “xấu như ma chê quỷ hờn”.
Lúc
đầu mới đọc ta tưởng Nam Cao thiên về chủ nghĩa tự nhiên, tưởng rằng ngòi bút
ấy lạnh lùng nhưng để rồi cuối cùng lại thấm đượm một tình cảm yêu thương, đằm
thắm. Thị Nở là người mà hình như cả làng Vũ Đại cũng gần như xa lánh, bởi thị
là “sự mỉa mai của tạo hóa”, thị “ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích”.
Vậy từ khi thị sinh ra đã không phải kết quả của một cuộc sống ấm nông dân hạnh
phúc, đủ đầy. Với một bộ mặt, một tính cách như vậy, Thị Nở phải chăng cũng chỉ
là người thừa trong xã hội ấy. Nói về cái xấu xa nhưng là để nói về tận cùng
nỗi khổ mà thôi.
Số
phận của người nông dân là thế, số phận của họ gần như đã an bài mà trong cách
miêu tả của tác giả từ Năm Thọ, Binh Chức đến Chí Phèo thì cuộc đời họ như bị
nhà tù án ngữ nơi cuối đường đi. Còn Thị Nở cũng bị con người xa lánh, chưa bao
giờ thị làm được người bình thường cả.
Ấy
vậy mà đỉnh cao của nỗi khổ lại chưa phải ở đó, mà ở bi kịch bị cự tuyệt quyền
làm người. Người nông dân hiền lành chất phác với bản tính nhân hậu tiềm ẩn vẫn
khát khao một cuộc sống no ấm, đủ đầy, vẫn khao khát quyền làm người. Chí Phèo
đã mất quyền làm người bởi ai xóa hết đi cho hắn những vết mảnh chai trên mặt,
những vết vằn ngang vằn dọc…Tưởng gặp được Thị Nở, con người ấy có xấu nhưng
vẫn ấm áp tình cảm con người, đã làm thức dậy ở Chí Phèo những khao khát ước
mơ, hạnh phúc. Chí Phèo muốn được làm người. Chí Phèo muốn trở thành lương
thiện nhưng cái hủ tục của xã hội cũ, những định kiến lạc hậu mà bà cô Thị Nở
là đại diện của nó đã tước đoạt đi của Chí Phèo quyền làm người, ước mơ xây đắp
hạnh phúc ấy. Chí Phèo đã đứng bên bờ của lương thiện, nhưng cái đau đớn nhất
là ước mơ, là quyền làm người chính đáng ấy bị cự tuyệt. Đến Thị Nở, một người
xấu “ma chê quỷ hờn” mà Chí Phèo vẫn
không “xứng đáng” với thị. Vậy thì xã
hội đó còn ai? Còn ai thương lấy Chí? Nỗi khổ tận cùng của người nông dân là
như vậy.
Trong
“Vợ nhặt”, nỗi khổ, số phận cảnh ngộ
của người nông dân được thể hiện rõ trong cảnh đói kinh niên 1945, khi mà cái
đói tràn đến xóm ngụ cư. Những người từ các tỉnh Thái Bình, Nam Định…dắt díu
nhau lên “xanh xám mặt mày”, ngày nào
người ra đồng cũng thấy ba bốn cái thây nằm còng queo, tiếng quạ kêu thê thiết
từng hồi. Cảnh đói đã đẩy người nông dân vào cảnh khốn cùng, họ đang kề cận bên
cái chết song vẫn khao khát và ước mơ một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những người
dân xóm ngụ cư nói chung và gia đình Tràng nói riêng đều chìm trong cảnh đói.
Bởi thế việc Tràng lấy vợ là một bất ngờ lớn, mọi người xem đó như “cái nợ đời” như là đèo bòng. Bữa cơm
ngày đói cũng chẳng có gì, bữa cơm đó chỉ là mấy bát “chè khoán” khi ăn Tràng thấy nghẹn bứ ở cổ. Khổ hơn nữa thân phận
rẻ rúng của cô vợ nhặt, chỉ vì miếng cơm mà về làm dâu nhà Tràng, theo không
Tràng về mặc dù biết cảnh nhà Tràng cũng đói khát.
Cảnh
đói của người nông dân đặt trong cảnh trống thúc thuế, phá lúa trồng đay của
bọn thực dân phát xít. Chìm trong nạn đói kinh niên ấy con người phải đấu
tranh, phải giành giật sự sống mà tiêu biểu là cô vợ nhặt – người con gái về
nhà chồng mà chỉ bằng mấy câu hò bâng quơ và bốn bát bánh đúc của Tràng. Người
con gái ấy quên đi nỗi xót xa của thân phận bám riết lấy sự sống quên đi cái
nhục, vượt lên trên nó để mà sống, mà tồn tại. Còn Tràng, một nông dân xấu xí
thô kệch bỗng nhiên có vợ, nhưng bà cụ Tứ (mẹ Tràng) đã hiểu ra cơ sự, chỉ vì
đói mà người ta mới cần đến con mình. Nhưng lòng nhân hậu ấy khiến bà mẹ bằng
lòng, vun vén cho cuộc sống của các con.
Gia
đình Tràng cũng như bao gia đình khác trong xóm ngụ cư phải giành giật với sự
sống. Họ thiếu miếng cơm, phải sống bằng “bát
chè khoán”, nhưng tất cả đều chấp nhận, bởi họ tin vào tương lai.
B.
Kết thúc hai truyện hoàn toàn khác nhau. Trong truyện “Chí Phèo” kết thúc là cái chết của Chí Phèo sau khi đâm chết Bá
Kiến. Đó là cái chết của một người khao khát quyền sống, quyền làm người nhưng
không được xã hội chấp nhận. Chí Phèo uống rượu, càng uống càng tỉnh, miệng bảo
đến nhà Thị Nở để giết chết “con khọm già
nhà nó”, nhưng bước chân lại đưa Chí Phèo đến nhà Bá Kiến. Trong tiềm thức
sâu xa, Chí Phèo hiểu và nhận thức được đâu là kẻ thù của mình, đâu là kẻ tước
đi cái bản chất lương thiện của Chí. Chính vì vậy, Chí Phèo đã đến nhà Bá Kiến,
cất cao giọng đòi quyền lương thiện nhưng Bá Kiến – kẻ hung ác xảo quyệt không
hiểu được điều đó. Kết cục là cái chết của kẻ thống trị và người bị trị, kẻ áp
bức bóc lột và người bị áp bức bóc lột.
Còn
trong “Vợ nhặt”, kết thúc tác phẩm
lại là niềm vui của gia đình Tràng, niềm tin trong mỗi con người. Bởi hình ảnh
của lá cờ đỏ sao vàng, bởi hình ảnh của những người đi phá kho thóc hay đúng hơn
là “Vợ nhặt” chính là cái buổi giao
thời của xã hội cũ và xã hội mới.
Sở
dĩ có sự khác nhau ấy bởi tác phẩm “Chí
Phèo” và “Vợ nhặt” mặc dù viết về
đề tài chung là tình cảnh người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945, song
tác phẩm của Nam Cao viết năm 1941, còn “Vợ
nhặt” được viết sau khi Cách mạng thành công. Mỗi tác phẩm thuộc một thời
kì văn học khác nhau. “Chí Phèo” nằm
trong thời kì văn học từ đầu thế kỉ XX đến 1945 thuộc dòng văn học hiện thực
phê phán. Cái chung hầu hết của các tác phẩm lúc đó là chưa tìm ra lối thoát
cho người nông dân, kết cục thường bế tắc. Mặc dầu “Chí Phèo” có kết thúc được xem là hợp lí song vẫn nằm trong sự hạn
chế chung đó.
Còn
“Vợ nhặt” thuộc nền văn học Cách mạng
1945 – 1975, xu thế chung của các tác phẩm trong thời kì này là tìm ra cho nông
dân con đường đấu tranh tự giải phóng mình, hướng họ đến với Cách mạng. Mỗi tác
phẩm mang một cách nhìn tại những thời điểm khác nhau của lịch sử nên ít nhiều
nó mang ảnh hưởng của xu thế văn học ở mỗi thời đại.
C. Giá trị nổi bật của hai tác phẩm không chỉ ở giá trị hiện thực mà còn ở giá trị
nhân đạo. Nhà văn cảm thông với nỗi khổ của người nông dân, phát hiện những
phẩm chất tốt đẹp của họ. Từ đó lên tiếng tố cáo xã hội đầy bất công đã đẩy con
người vào tình cảnh đó.
Ở “Chí Phèo”, Nam Cao cảm thông với nỗi
khổ khôn cùng của một người nông dân khi
bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người. Nói về cái tật xấu của Thị Nở nhưng
là nói về cái khổ tận cùng, để từ đó lên tiếng yêu thương bênh vực họ.
Tác phẩm phát hiện ra vẻ đẹp của người nông dân kể cả khi
tưởng như họ là một con quỷ mất hết nhân tính, nhưng trong họ vẫn còn khao khát
ước mơ. Có người còn cho rằng trong tác phẩm duy chỉ có Thị Nở - một người
không có bộ mặt người nhưng lại mang tính người. Đó phải chăng là sự phát hiện tinh
tế của Nam Cao về những con người tưởng bề ngoài xấu xí mà lại tiềm ẩn bản chất
tốt đẹp, từ đó nhà văn lên tiếng tố cáo xã hội thực dân với nhà tù, với những
thủ đoạn
thống trị, đã chà đạp lên quyền sống, lên nhân phẩm của con người.
Còn
trong “Vợ nhặt” là lòng cảm thông với
những số phận nghèo khổ trong cảnh đói, thông cảm với nỗi đau của họ. Để rồi từ
đó là lời ca ngợi những con người có phẩm chất sống cao đẹp. Dù trong hoàn cảnh
đói khổ như vậy, họ vẫn khát khao sống, bám lấy sự sống như một quy luật tất
yếu của sự sinh tồn. Cả những người dân xóm ngụ cư đều hướng cả về sự sống. Gia
đình Tràng cũng vậy, mặc dù việc Tràng lấy vợ trong lúc đói kém khó khăn, thiếu
ăn thiếu mặc, nhưng Tràn vẫn “chậc, kệ”,
để nghĩ về cuộc sống mới, bà cụ Tứ thu vén cho tương lai của các con.
Tác
phẩm tố cáo xã hội tù túng đã đẩy con người vào đói khổ, những thủ đoạn cai trị
của bọn thực dân phong kiến đã đẩy nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp năm
1945.
“Chí Phèo” và “Vợ nhặt” của Nam Cao và Kim Lân là hai tác phẩm thành công xuất
sắc về đề tài nông dân trước 1945. Đề tài không mới, song cái làm nên thành
công của hai tác phẩm là ở sự phát hiện, khám phá riêng về cảnh ngộ người nông
dân và tư tưởng nhân đạo đặc sắc mới mẻ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét