ĐỀ 29: Suy
nghĩ của anh (chị) đối với vấn đề nhân sinh được đặt ra trong câu văn sau: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những
hi sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới,
điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy...” (Mùa lạc - Nguyễn Khải).
BÀI LÀM
Triết lí nhà Phật có nhắc đến thuyết luân hồi: Một con người,
sự vật chết đi sẽ hoá thân, chuyển kiếp sang một kiếp sống mới, dưới một hình hài
mới. Bản thân tôi không hoàn toàn tin vào nó, tôi cảm nhận được nó dưới một
khía cạnh khác. Đọc Mùa lạc của
Nguyễn Khải tôi nhận ra được một điều: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết,
hạnh phúc hiện hình từ trong những hi sinh gian khổ, ở đời này không có con
đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước
qua những ranh giới ấy”.
Sự sống ở đây, theo
tôi là những giá trị hiện sinh, đó là sự sống của con người, cỏ cây, chim
muông. Đó cũng có thể hiểu là sự sống trong tâm hồn, trong nhận thức. Sự sống
và cái chết; hạnh phúc và hi sinh gian khổ là những khái niệm trái ngược nhau,
thế nhưng “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong
những hi sinh, gian khổ”.
Tại sao lại như
thế? Theo tôi, trước hết là bởi không có gì trường tồn mãi với thời gian, không
có cuộc sống, số phận nào là luôn luôn hạnh phúc. Cái chết phải luôn song hành
cùng sự sống, có hi sinh gian khổ mới có hạnh phúc. Cuộc sống vốn rất phức điệu
và đa chiều. Nó có muôn màu, muôn vẻ thiên hình và vạn trạng. Ông cha ta đã
từng khẳng định: “Qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai”. Đó chính là một dẫn chứng
cho ý kiến trên. Không ai cấm trên xác cây khô kia nảy sinh những mầm xanh, qua
mùa đông tàn tạ, úa vàng mới đến ngày xuân trăm hoa đua nở. Đó chính là vì “sự
sống nảy sinh từ trong cái chết”.
Ở đây là một câu nói có tính chất khẳng định. Từ trong cái
chết, cái tàn tạ, úa vàng sẽ nảy sinh ra sự sống, giá trị hiện sinh. Sự sống ấy
dĩ nhiên không thể chung sống, phát triển trong môi trường ấy nhưng đó là nơi
nó “nảy sinh”. Bản thân sự vật luôn biến đổi không ngừng nghỉ, ẩn sâu bên trong
cái khô héo không ai ngăn trở được là những biến đổi vận động không ngừng để
nảy sinh ra sự sống. Ai biết được, những hạt lúa đã được phơi khô kia cấy xuống
nước lại có thể mọc ra cây lúa xanh tươi. Tôi lại chợt nhớ đến bài kệ của một
bậc thiền sư thời Lí căn dặn học trò trước lúc ra đi:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tàng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Dịch thơ
Xuân đi, trăm hoa rụng
Xuân đến, trăm hoa cười
Trước mắt
việc đi mãi
Sau lưng già
đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
(Mãn Giác
thiền sư)
Vâng,
xuân đến và đi là quy luật của tạo hoá. Đó là vòng quay của thời gian. Thế
nhưng, trong cái giá rét của đêm đông ấy, trên cái cành khô mà tưởng như hoa đã
“lạc tận”ấy vẫn bừng lên vẻ đẹp của “nhất chi mai”. Cái hình ảnh cành mai dẫu
đơn độc nhưng thật cứng cỏi ấy như tạc vào đêm tối chính làminh chứng rõ ràng
nhất cho sự sống ở giữa cái nơi mà vạn vật tưởng đã úa tàn. Sự sống và cái
chết, đau khổ và hạnh phúc, đó chính là một vòng tròn của số phận, của tạo hóa;
đó chính là nguyên cớ cho sự sống hiện hình.
Với Mùa lạc, Nguyễn
Khải cũng đã chứng minh được điều đó. Có ai ngờ đâu trên mảnh đất đầy bom đạn
của Điện Biên, nơi từng bị bom thù giày xéo từng tấc đất, tưởng như không một sự
sống lại mọc lên một nông trường Điện Biên cây cối tốt tươi, có cả cuộc sống
con người với đủ mọi cung bậc cảm xúc. Đối với con người cũng vậy, hạnh phúc
hiện hình từ trong hi sinh, gian khổ. Bác Hồ cũng đã từng nói: “Nếu không có
cảnh đông tàn/ Thì sao có cảnh huy hoàng ngày xuân”. Con người từ khi sinh ra,
không ai có được quyền hưởng hạnh phúc suốt đời mà không phải chịu sự khổ đau,
hi sinh nào. Cũng như, không có ai là suốt đời đau khổ mà không tìm được hạnh phúc.
Trong vất vả, đớn đau, hạnh phúc vẫn có thể hiện hình. Một người đã “quá lứa lỡ
thì” như Đào, đã từng mất chồng mất con, từng lang bạt tứ xứ tối đến đặt lưng ở
đâu là nhà, một con người từng chịu bao nhiêu đau khổ, mặc cảm, cuối cùng cũng
tìm được một bến đỗ bình yên nơi nông trường, tìm được một hạnh phúc dẫu muộn
màng bên người đội trưởng.
Vâng, phải chăng đó
chính là hiện hình của hạnh phúc. Hay với Vợ
nhặt của Kim Lân chẳng hạn. Trong cái nạn đói khủng khiếp từng giết chết
hai triệu đồng bào ta, giữa cái không khí dày đặc nỗi ám ảnh về cái chết mà Kim
Lân tạo dựng rất thành công, người đọc vẫn
cảm động biết bao khi bắt gặp hạnh phúc - dẫu mới chớm nở và đang ngập chìm
trong nỗi lo toan của Tràng, của “thị” và của bà cụ Tứ. Vâng, trong đau khổ,
đói nghèo, kề cận với cái chết, hạnh phúc vẫn hiện hình và trở thành nguồn động
viên với họ. Không trải qua hi sinh, gian khổ làm sao đòi hỏi được có hạnh
phúc. Hạnh phúc - sự sống cứ như được gieo mầm từ trong cái chết - trong gian
khổ hi sinh. Đó chính là lí do để thôi thúc tôi không nguôi hi vọng, không thôi
chiến đấu vì niềm tin đó. Đó là bởi “ở đời này không có con đường cùng, chỉ có
những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới
ấy”…
Vai
trò của con người đã được khẳng định: con người phải chiến đấu, luôn luôn chiến
đấu để vượt qua ranh giới - ranh giới của sự sống và cái chết, giữa hạnh phúc
và hi sinh, đau khổ. Vâng, ở đời này không có con đường cùng mà chỉ có những
ranh giới. Sự sống, hạnh phúc chưa và sẽ không bao giờ đi đến chỗ tận diệt cả,
có chăng đó chỉ là những thử thách, ranh giới đòi hỏi con người phải vượt qua,
phải chiến thắng nó. Đó mới là vai trò, sứ mệnh của con người. Vậy, “điều cốt
yếu” là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy. Giữa sự sống - cái
chết, hạnh phúc - khổ đau luôn có những ranh giới. Và chỉ có chúng ta, những
con người mới có đủ khả năng vượt qua nó. Mị trong Vợ chồng A Phủ là một minh chứng về sức mạnh vượt qua những ranh
giới của con người. Từ một cô gái xinh đẹp, thổi sáo hay nức tiếng khắp nơi, bị
bắt về “cúng trình ma” nhà A Sử, sau khi muốn tự tử mà không được vì thương bố,
Mị phải chấp nhận làm dâu, làm con trâu, con ngựa cho nhà thống lí Pá Tra. Bị
hành hạ, đối xử tàn tệ, tưởng như Mị đã mất hết sức sống, mất hết ý chí mà trở
thành cái xác vô hồn. Nhưng không, trong con người Mị vẫn tiềm tàng một sức
sống mãnh liệt không gì dập tắt nổi. Đó là ngày xuân muộn ở Hồng Ngài, Mị đòi
đi chơi xuân (dù sau đó bị A Sử bắt trói vào cột nhà). Đó là ngày tết Mị lén
lấy rượu uống từng ngụm lớn. Và tiêu biểu nhất, đỉnh cao của tác phẩm là khi cô
cắt dây trói cho A Phủ và xin đi theo. Đó chính là hành động giải thoát cho
người khác và cho chính bản thân mình. Tưởng chừng như, sau biết bao hi sinh
đau khổ, sự sống, khát khao hạnh phúc trong cô đã bị dập tắt. Nhưng không, nó
vẫn cháy âm ỉ thành một sức mạnh giúp cô vượt qua ranh giới mà tìm tới hạnh
phúc, tìm lại sự sống (và quả thật, tới Phiềng Sa, tìm được ánh sáng của cách
mạng, Mị và A Phủ đã có cuộc sống đúng nghĩa). Một con người như Mị, tưởng như
bị đẩy tới “bước đường cùng” nhưng vẫn đủ sức mạnh để vượt qua. Đó chính làminh
chứng: trên đời này không có bước đường cùng mà đó chỉ là ranh giới mà chúng ta
phải vượt qua mà thôi. Vậy tại sao, con người lại không đủ dũng khí để tiến
bước. Hay như nhân vật Đào của Mùa lạc,
cảnh ngộ ấy, cuộc đời ấy như bị đẩy tới tột cùng của đau khổ. Có lúc, Đào mặc
cảm không dám đón nhận và chiến đấu vì hạnh phúc. Vậy mà sau đó cô cũng nhận
thức được, cũng khao khát được hạnh phúc, đón nhận nó. Và cuối cùng, hạnh phúc
đã đến với cô, một gia đình hạnh phúc với người yêu cô trên nông trường Điện
Biên thân yêu. Đó chính là ranh giới và sự vượt qua ranh giới. Vâng, và vì thế,
đứng trước những ranh giới đó con người phải biết chiến đấu, phải có sức mạnh
để vượt qua. Đó chính là điều cốt yếu! Là con người, hạnh phúc và sự sống không
thể chờ đợi ai mang đến cho mình mà phải chiến đấu mà giành lấy và gìn giữ nó.
Đứng trước những ranh giới ấy, bản lĩnh con người mới được bộc lộ và phát huy.
Không bao giờ được nguôi tắt hi vọng, phải chăng phần nào Nguyễn Khải muốn nhắn
gửi với chúng ta điều đó.
Trong
cái chết, trong gian khổ hi sinh vẫn có thể nảy sinh, hiện hình hạnh phúc và sự
sống. Xung quanh chúng ta cũng có biết bao tấm gương như vậy. Những học sinh
hoàn cảnh khó khăn, mất bố mẹ, gia đình nghèo khó mà vẫn vươn lên học tốt không
phải là những tấm gương cho ta học tập sao? Những người thương binh, hi sinh
một phần máu thịt cho Tổ quốc, những người không còn sức khoẻ mà vẫn vươn lên
làm kinh tế giỏi, những người đó có làm ta suy nghĩ? Cuộc sống dường như đã đẩy
họ đến bước đường cùng, nhưng họ đã chứng minh cho ta thấy, đó chỉ là những
ranh giới và thực tế bằng ý chí, quyết tâm, sức mạnh họ đã vượt qua cái ranh
giới khó khăn ấy.
Vâng, từ trong cái chết sự sống vẫn hiện hình.
Nó thôi thúc ta hi vọng, chiến đấu để vượt qua tất cả. Hạnh phúc, sự sống nảy
sinh hiện hình từ trong gian khổ và cái chết mới khiến ta trân trọng biết bao!
Vấn đề nhân sinh mà Nguyễn Khải đặt ra trong Mùa lạc là rất đáng để suy ngẫm chiêm nghiệm. Kết thúc bài viết,
tôi lại nhớ đến một bài thơ (cũng của một nhà sư) mà tất cả mọi người trong lớp
tôi đều yêu mến. Dường như giữa Nguyễn Khải và Khuông Việt có gì gặp nhau
chăng?
Mộc trung nguyên hữu hoả
Hữu hoả, hỏa hoàn sinh
Nhược vị mộc vô hoả
Toản toại hà do manh
Tạm dịch:
Lửa sẵn có trong cây
Vơi đi chốc lại đầy
Ví cây không có lửa
Xát lửa sao bùng ngay.
Cái “ngọn lửa đầu
tiên” thắp sáng lên hi vọng ấy phải chăng đã được Nguyễn Khải đưa vào Mùa lạc mà phát triển, bổ sung thành một
triết lí mới.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét