Đề bài:
Bàn về truyện cổ tích và ca dao,có ý kiến cho rằng:"Các
nhà văn học được văn trong chuyện cổ
tích và học được thơ trong ca dao". (Đỗ Bình Trị, phân tích tác phẩm văn
học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội,
1995, trang 111)
Anh chị suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên?
Bài làm
Có những tác phẩm ra đời cách đây rất lâu mà không
bao giờ cũ, vẫn để lại trong lòng người đọc những ấn tượng, ám ảnh, day dứt
khôn nguôi. Đó là những câu chuyện cổ tích, những áng ca dao, dân ca. Dù năm
tháng đổi thay, những đền đài rồi sụp đổ, những tranh tượng tiêu tan thì các tác phẩm văn học dân
gian ấy vẫn cứ tồn tại, bền bỉ, như dòng sông
chảy mãi tưới mát tâm hồn bao thế hệ người đọc hôm qua và hôm nay và mai
sau. Song không chỉ bồi đắp tâm hồn muôn triệu con người, những câu chuyện cổ,
những áng ca dao còn là nguồn cảm hứng khơi nguồn cho các tác phẩm thơ ca, văn
chương của văn học viết, giúp các nhà thơ, nhà văn học được nhiều điều. Bởi
thế, khi bàn về chuyện cổ tích và ca dao,có ý kiến cho rằng: "Các nhà văn
học được văn trong chuyện cổ tích và học được thơ trong ca dao".
Tôi còn nhớ người nghệ sỹ mù, nhà thông thái của
Hy Lạp cổ đại Hômerơ từng lang thang
khắp các thành phố, khắp các nẻo đường nhặt nhạnh, lắng nghe những câu chuyện
dân gian, để từ chất liệu vô giá ấy viết lên hai thiên trường ca bất hủ: Iliat
và Ôđixê. Tác giả của sử thiRamayana và Mahabharata ccũng kiếm tìm bền bỉ trong
kho thần thoại dân gian ấn Độ để sáng tác nên hai thiên sử làm rạng danh cho
nền văn học ở đất nước giàu truyền thống văn hoá này. Học tập tinh hoa văn hoá
của văn học dân gian để làm đẹp, làm giàu cho các sáng tác văn học viết là một
quá trình bền bỉ của nhiều nhà nghệ sỹ ở nhiều nền văn học trên thế giới. ý
kiến của nhà nghiên cứu Đỗ Bình trị khi bàn về chuyện cổ tích và ca dao đã
khẳng định sự học tập, tiếp thu tinh hoa văn học dân gian của các nhà văn nhà
thơ. Truyện cổ tích và ca dao, những sáng tác truyền miệng vô danh cứ âm thầm
bền bỉ sống từ đời này qua đời khác. Nó được kể lại, được ngâm nga, hát lên
trong những lời mẹ ru con bên nôi, những tâm tình của gái trai bên cối gạo, những
người chống đò hát với đêm trăng(ý của Chế Lan Viên). Một dân tộc có thể đếm
được số nhà văn, nhà thơ, nhưng sao có thể tính được những người vô danh sáng
tác nên cả nền văn học bằng trí nhớ? Truyện cổ tích và ca dao mãi bất diệt
trong đời sống tâm hồn, tâm hồn tình cảm con người, khơi nguồi cảm hứng cho bao
nghệ sĩ. "Học" ở đây được hiểu là sự tiếp nối, kế thừa một cách sáng
tạo những vẻ đẹp của truyện cổ tích và ca dao. Các tác giả không sao chép thụ
đông vẹn nguyên những sáng tác dân gian truyền miệng mà học tập trên cơ sở sáng
tạo, học trên cơ sở phát huy. Có như vậy những tác phẩm văn học viết mới tồn
tại theo thời gian,trụ vững cùng năm tháng. Nếu không chúng ta sẽ chẳng khác
nào một bản sao vụng về về văn học dân gian. "Học được văn trong chuyện cổ
tích, học được thơ trong ca dao"- sự học đấy không chỉ giản đơn thoáng
chốc trong ngày ột ngày hai, mà là cả một quá trình lâu dài, bền bỉ. Những
truyện cổ tích, những áng ca dao cứ thấm nhầm trong tâm hồn nghệ sĩ để hồn văn
hồn thơ tự nhiên chuyển hoá và văn học viết, chứ không phải sự bắt trước sống
sượng, vô hồn. Các tác giả học được gì ở sáng tác dân gian? Họ tiếp thu những
ngôn ngữ, lối cấu tứ,hình ảnh...Trong ca dao họ học được cách xậy dựng nhân
vật, không khí chuyện huyền ảo, thần bí, cách kết thúc có hậu..trong cổ tích.
Các tác phẩm dân gian cứ thả hồn mình và các sáng tác của các nhà văn hiện đại.
Chính sự học tập này là một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của văn học
viết.
Đọc văn học viết không hiểu sao tôi cứ thấy thấp
thoáng về một Chử Đồng Tử, một sự tích Trầu Cau, những hồn ca dao dân ca thuở
nào vương vấn. Những tác phẩm ấy không chết mà vẫn tái sinh vĩnh cửu trong nền
văn học hôm nay cũng như văn học Hi - La đã góp phần tái sinh làm nên cả một
nền văn học Phục Hưng "xanh màu nhân bản". Vì lẽ gì các nhà văn nhà
thơ lại tiếp nối học tập những truyện cổ tích, những áng ca dao mang hồn quê
muôn thuở? Điều gì làm nên sự nối dài trong lịch sử văn học này?
Trước hết có thể thấy rằng, văn học dân gian là
văn học đầu tiên xuất hiện trong lịch sử văn hoá tinh thần của con người. Nó
đồng hành cùng sự sống của con người ngay từ lúc sơ khai. Khi con người thoát
khỏi những tiếng gào rú vô hồn, những âm thanh vô nghĩa, khi con người biết
đứng trên đôi chân khoẻ mạnh của chính mình biết cảm nhận cái đẹp, cũng là lúc
văn học dân gian ra đời - một nền văn học chỉ lưu truyền trong trí nhớ. Truyện
cổ tích và ca dao xuất hiện muộn hơn các thể loại văn học dân gian khác như
thần thoại, sử thi, truyền thuyết khi xã hội đã có đấu tranh gia cấp. Như thế
chính sự ra đời muộn hơn và đạt được nhiều thành tựu đáng kể mà truyện cổ tích
và ca dao đã đen đến cho các nhà văn, nhà thơ sau này những bài học về nghệ
thuật giúp các tác giả học được nhiều điều. Có học giả đã nhận xét rằng: Các
tác giả trong "Kinh thi" phần nhiều là của nông dân, phụ nữ làm ra mà
nhiều văn sĩ đời sau không theo kịp được. Là tiếng nói bình dân, nhưng cũng như
Kinh thi", truyện cổ tích và ca dao Việt Nam sống với thời gian bằng sức
hấp dẫn nội tại của nó. Vẻ đẹp ấy muôn đời vẫn được khám phá tìm kiếm. Các nghệ
sĩ sau này học tập, tiếp thu những vẻ đẹp cả nội dung nghệ thuật và nội dung có
giá trị vĩnh cửu, ngàn đời của văn học dân gian. Từ câu chuyện cổ dân gian nước
Nga Puskin chẳng sáng tác nên "Ông lão đánh cá và con cá vàng' sao? "Vợ
chồng A Phủ" cũng phảng phất hồn cổ tích muôn đời in dấu vào trang viết.
Những câu ca dao chẳng đã đổ bóng lung linh trong
thơ Nguyễn Du, Nguyễn Bính sao? Nếu văn học dân gian chỉ đơn giản là những câu
hò vè vô nghĩa, những lời nói bắt thành vần, sao
chúng có thể làm nên những bài thơ nghệ thuật cho văn nghệ sĩ sau này học
tập, tiếp thu? Chính nhữngthành tựu trong văn của truyện cổ tích và thơ của ca
dao đã giúp các tác giả sau này học được nhiều điều.
Có thể thấy lịch sử văn học phát triển trong sự
nối dài của nhiều nền văn học. Văn học dân gian và văn học viết vừa song hành,
vừa tiếp nối nhau. Nền văn học ra đời sau tất yếu phải tiếp thu những tinh hoa
của nền văn học trước. Các nhà văn, nhà thơ sau này tất nhiên phải học tập cái
hay cái đẹp của văn trong truyện cổ, của thơ trong ca dao. ấy là quy luật của
sáng tạo nghệ thuật.
Những câu truyện cổ tích, những câu ca dao tái
sinh mình trong các tác phẩm văn học viết sau này. nhưng sự học tập của các nhà
thơ nhà văn không phải là sự sao chép nguyên vẹn, bê nguyên cổ tích, ca dao vào
trong trang viết. Trái lại, bẳn chất của văn học là sáng tạo. Văn chương sẽ
đi về đâu nếu như những nghệ sĩ chỉ lặp
đi lặp lại những điều đã có, nếu nhà văn nhìn đời bằng con mắt cũ mòn? Bởi thế,
tiếp thu mà không quên sáng tạo. các tác giả đem cái hồn văn của cổ tích với mô
típ nhân vật, kết cấu, cách nhận thức, suy nghĩ của người xưa vào văn mình, đem
cái hồn thơ lấp lánh trong ca dao để làm nên chất hồn riêng cho thi phẩm. Quá
trình học được kia vì thế mà không hề thụ động, có tiếp thu nhưng phải trên cơ
sở sáng tạo, phát huy. Những giấc mơ cổ tích ngày nào, những giai điệu ngọt
ngào tình tứ của ca dao tưởng đã lùi xa vào dĩ vẵng, tưởng chỉ tồn tại như sản
phẩm tinh thần của con người một thời. Song nó đã bắt rễ vào trái tim tâm hồn người
Việt. Từ lúc nào, cổ tích ca dao đã ngấm sâu vào muôn nẻo hồn thơ, muôn nẻo hồn
văn của các nghệ sĩ hôm nay. Thế mới thấm thía bài học sáng tạo của nghệ sĩ
muôn đời. ý kiến của nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị xét đến cùng là sự học tập,
tiếp nối, kết thừa, sáng tạo, phát huy những tinh hoa truyện cổ,cao dao để làm
giàu, làm đẹp thêm cho văn học viết.
ý kiến đó là sự nghiên cứu nghiêm túc, bền bỉ của nhà phê bình. Nó được thử
nghiệm, minh chứng bởi quá trình phát triển của văn học, bởi hành trình tiếp
thu những giá trị đẹp đẽ của truyện cổ, ca dao từ văn học trung đại, văn học
hiện đại đến văn học hiện đại hôm nay.
Sự tiếp thu ấy không chỉ diễn ra trong văn học
Việt Nam ma cả Văn học nhân loại. Bởi vậy, ý kiến của nhà nghiên cứu Đỗ Minh
Trị là đúng đắn và có tình thuyết phục cao. Ai đó không ngần ngại khẳngđịnh
rằng: Lịch sử của văn học là lịch sử tâm hồn của mỗi dân tộc. Bởi văn học gắn
liền cùng cuộc sống đồng hàng cùng sự sống con người. Trong đó cổ tích, ca dao
chính là tâm hồn con người lúc ấu thơ. Tâm hồn ấy sẽ dần cứng cáp và phát triển
trong nền văn học viết. Nhưng trang
truyện cổ, những câu ca dao bao thế kỷ rồi vẫn như những con sóng xô bờ tâm hồn để mặt biểt tâm hồn lòng người
không ngừng rung động, xôn xao. Nó âm vọng vào cả nền văn học sau này, để con
người hôm nay, mỗi lần giở Truyện Kiều, đọc thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Bính,
Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm...lại thấy thấp
thoáng, lại được gặp lại nơi mỗi trang thơ hồn ca dao đi về muôn thuở. Các tác
giả đã học tập được thơ của những câu hát dân gian. Chất thơ vút lên từ mồ hôi,
nước mắt, từ cuộc sống cần lao lam lũ của đời thường. Vì đâu Truyện Kiều có thể
trở thành tiếng hát của tâm hồn dân tộc? Bởi lẽ tiếng thơ Tố Như đã đi về cùng
ca dao muôn đời. Nhà thơ đã học tập những tinh chất, tinh hoa trong ca dao.
Chính Tố Như đã nói: Thôn ca sơ học tang ma ngữ ( trong nơi thôn, xóm, ta học
được tiếng hát của trồng dâu, trồng gai). Đi vào cuộc sống, trở về với nguyên
thuỷ dân ca, nhà thơ sẽ trưởng thành lên rất nhiều, nhà thơ sẽ học được nhiều
điều."Học được thơ trong ca dao",Nguyễn Du đã học được ngôn ngữ,hình
ảnh, thể lục bát truyền thống,...từ tiếng hát tâm hồn người lao động. Hình ảnh
nàng Kiều chẳng phải là hiện thân điển hình cho những người phụ nữ khốn khổ,
khốn cùng nơi những câu hát than thân: Thân em như hạt mưa sa, Thân em như hạt
mưa rào sao? Khơi nguồn thi cảm từ bề sâu nhân thế, không biết đã bao thi nhân
đau đớn lòng. Nguồn cảm hứng về nỗi khổ con người đã được khai thác nhiều mà
xem ra chưa cạn vơi đi nhiều lắm. Nguyễn Du đã bắt nhịp tâm hồn cùng tiếng khóc
của người phụ nữ dưới đáy cùng bể khổ kia,để cất lên khúc hát rong về nỗi khổ
phận người. Cảm hứng ấy chẳng phải đã được khởi nguồn từ ca dao, dân ca sao?
Song có lẽ, là lối sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ, thi liệu. Những vầng trăng,
những lời thề nguyền, hò hẹn, những từ ngữ vừa bình dị, vừa lấp lánh chất
thơ,... đi vào Truyện Kiều từ miền ca dao xưa cũ.Vầng trăng trong cuộc chia li
Kiều-Thúc:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in chiếc gối,nửa soi dặm trường!
được học tập từ vầng trăng của ca dao một thuở:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?
Vẫn là vầng trăng ấy, mà sao từ ca dao hoá thân
vào "Đoạn trường tân thanh" lại mang một nét hồn riêng biệt. Vầng
trăng trong con mắt người biệt li nhuốm đầy tâm trạng. Vì người phải chia phôi
nên trăng cũng thành xẻ nửa. Lấy cái nhìn chủ thể mà nhìn hiện thực khách quan,
Nguyễn Du đã để vầng trăng vốn tròn đầy, viên mãn, vỡ ra thành hai mảnh. Câu
thơ dâng đầy một nỗi xót xa cùng bao dự cảm âu lo. Thực chất trăng vẫn viên
mãn, tròn đầy, nhưng đó là viên mãn trong cái nhìn của kẻ không cô đơn. Còn hôm
nay Kiều và Thúc, mỗi người chỉ mang trong mình một nửa vầng trăng thôi, một
nửa vầng trâng hao khuyêt. Thấy phảng phất trong thơ Tố Như cuộc biệt li của cô
gái - chàng trai của ca dao. Cuộc biệt ly ấy hoá thân vào sự chia phôi giữa
Kiều và Thúc. Vầng trăng tan vơ trong ca dao lại in bóng ở truyện Kiều. Nừu như
không học tập ngôn ngữ, hình ảnh của
người lao động bình dân, sao Nguyễn Du có thể viết nên hai câu thơ bất hủ, hai
câu thơ góp phần không nhỏ làm nên vẻ đẹp toàn bích của Truyện Kiều?
Thể lục bát truyền thống làm nên giai điệu ngọt
ngào của chất thơ trong ca dao được học tập đầy sáng tao trong thơ Nguyễn Du.
Nhà thơ đã tiếp thu vốn văn học dân gian để đưa vào tác phẩm của mình những vần
thơ tuyệt tác. Làm nên vị trí kiệt tác số một của "Đoạn trường tân
thanh" trong văn học Việt Nam có nhiều lý do, song không thể thiếu: Tố Như
đã đi vào nơi cuộc sống của người bình dân, bằng vốn tri thức sách vở và đời
thực, ông đã "học được thơ trong ca dao", một sự học tập đầy sáng
tạo.
Không chỉ Nguyễnn Du, Nguyễn Bính- một nhà thơ mới
- cũng đã đem lại "một thời đại trong thi ca" môt tiếng thơ quen. Bởi
thi sĩ đã trở về nương hồn mình nơi bến nước, gốc đa, những đem hội chèo để
lắng nghe tiếng vọng của ca dao đổ về từ cội nguồn dân tộc. Nến Xuân Diệu từ bỏ
chốn làng quê thuần hậu, đi đến nơi thành thị để làm một người rất mới, rất
Tây, nếu Huy Cận đắm mình trong sương khói Đường thi bẳng lảng thì Nguyễn Bính
trở về đưa hồn thơ chan hoà vào ca dao thuần hậu nguyên thuỷ muôn đời. Có lạ chăng khi trong thơ của một nhà
thơ mới mà cứ thấp thoáng về một "người nhà quê" một hồn thơ về một
bến nước gốc đa, với nỗi thương tương tư của người Việt Nam thuở trước. Hoá ra
tâm hồn của chàng thi sĩ 'quê mùa" Nguyễn Bính đã ăm áp chất thơ của ca
dao. Nhưng từ ngữ, hình ảnh, cách tỏ tình lứa đôi trong thơ, những
"mình", những "ta", những "anh", những
"nàng", lối lục bát mênh mang giai điệu chữ tình sao gần với ca dao
làm vậy? Đọc thơ Nguyễn Bính mà cứ ngỡ rằng thêm lần nữa được thưởng thức nguồc
ca dao từ xưa cũ. Xong ngẫm nghĩ kỹ, vẫn thấy một cái tôi Nguyễn Bính không
nhạt nhoà, hoà lẫn trong thơ ca của những thi sĩ bình dân:
"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ, mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Nắng mưa là bệnh của tôi yêu nàng.
Không nói "anh nhớ em", "tôi nhớ
nàng" mà kín đáo ngụ nỗi nhớ vào hai miền không gian xa cách: thôn Đoàn - thôn Đông, một
người - một người. Đúng là cách bày tỏ tình cảm kín đáo, vòng vo của ca dao.
Tình cảm là thực sự của mình, nhưng cứ gắn cho một đối tượng nào bóng gió, xa
xôi lắm; những "mận", những "đào", những "mượn mình
làm mối cho ta một người", mà lại là "Một người vừa đẹp vừa tươi như
mình". Hai chữ một mình bị đẩy ra hai đầu câu thơ, khiến khoảng cách vô
cùng cách trở: chín nhớ mười mong. Thành ngữ dân gian đi vào câu thơ một cách
tự nhiên. Có phải Nguyễn Bính đã lấy từ "Yêu nhau tam tứ núi cũng
trèo"của ca dao?Chàng thi sĩ"quê mùa"ấy đã phả vào thơ mình một
chất thơ lấy từ ca dao. Đó là một trong những nét làm nên sức hấp dẫn riêng của
thơ Nguyễn Bính.
Một Tố Hữu đem vào thơ mình nguồn ca dao một thuở
với những "mình', "ta" (Việt Bắc). Mượn cách nói của tỏ tình đôi
lứa để biểu đạt những tình cảm chính trị lớn lao. Thơ Tố Hữu gần với ca dao
biết mấy! Nguyễn Khao Điềm trong "Mặt đường khát vọng" cũng tìm về ca
dao để cắt nghĩa, lý giải sự sinh thành, phát triển của đất nước ở bề sâu của
văn hoá. Và cả những Nguyễn Duy, Nguyễn Cống Trứ, Đồng Đức Bốn...sau này. Các
nhà thơ đã học tập chất thơ- những từ ngữ,hình ảnh, cảm hứng, cấu tứ, giọng
điệu ở ca dao.
Không chỉ học tập chất thơ trong ca dao, văn học
viết còn tiếp thu chất văn trong cổ tích. Những câu chuyện vô danh chở đầy ước
mơ hồn nhiên của con người thuở trước giờ lại đổ bóng hình vào văn học hiện đại
hôm nay. Victo Huygô xây dựng nên hình
tượng Quadimôđô từ thế giới nhân vật dị dạng, méo mó trong cổ tích. Những chất
liệu từ cổ tích đã cung cấp cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. Họ học ở cổ
tích cách xây dựng nhân vật theo môtíp thiện - ác, phả vào trang văn của mình
chất huyền ảo, thiêng liêng. Và niềm tin, sự lạc quan vào tư tưởng các nhà văn
hiện thực cách mạng. Có ai đó cho rằng "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài
lá thiên truyện thấm đầy chất cổ tích và hiện thực. Cổ tích chuyển hoá vào hiện
thực. Môtíp nhân vật ấy chắc hẳn Tô Hoài đã học được từ chất văn trong trang
chuyện cổ ngày xưa. Mị tiêu biểu cho người con gái nghèo, bất hạnh, cô phải
chịu những đau khổ trong cuộc đời nhưng lại mang trong mình những khoảng sáng
của những phẩm chất tốt đẹp.
A Phủ là hiện thân của nhân vật các chàng trai mồ
côi hoàn toàn không có gì cả, song lại có một sức sống bề bỉ, dẻo dai. Họ không
có gì cả mà lại mang trong mình những phẩm chất vô giá. Có phải ta đạng gặp lại
hình ảnh Chử Đồng Tử trong A Phủ, gặp lại cô Tấm dịu hiền trong hình ảnh Mị? Lối kết thúc có
hậucũng được sử dụng trong truyện ngắn. A Châu người chiến sĩ cách mạng là hình
ảnh của ông tiên, vị phật đem lại hạnh phúc cho những chàng trai, cô gái bất
hạnh. Có thể thấy "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã đọc được chất văn từ
cổ tích xa xưa. Lời kể chuyện trầm trầm, khách quan nhưng vẫn thấy ấm áp tấm
lòng người cầm bút.
Như thế có thể thấy rằng các nhà văn nhà thơ đã
học được văn trong truyện cổ tích và học được thơ trong ca dao. Đó là sự học
tập đầy sáng tạo, học tập trên những gì có sẵn. Chính nguồn thơ, nguồn văn ở văn học dân gian
đã nuôi dưỡng cho những sáng tác ở văn
học viết. Nó tái sinh trong văn học hôm nay. ý kiến của nhà phê bình Đỗ Bình
Trị không trực tiếp nói nên sức sống của văn học dân gian. Song qua học tập và
tiếp thu của các tác giả mà ta hiểu được sức sống đó nhừng nào. Ngược lại có
những tác phẩm học tập từ ca dao rồi tác động, ảnh hưởng tới chính ca dao
(Truyện Kiều). Nhiều câu ca dao được sáng tác từ chính từ mối tình Kim- Kiều
trắc trở:
Anh xa em như liễu xa hồ
Như Thuý Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên cho tái
hồi.
ý kiến này cũng đặt ra cho người cầm bút muôn đời:
Anh hãy học tập, tiếp thu sáng tạo những tinh hoa của truyện cổ, của ca dao để
làm đẹp thêm cho sáng tác của mình. Bởi ca dao, truyện cổ là dòng sông muôn đời
bồi đắp cho người sáng tạo.
Ôi những dòng sông bắt nước từ
đâu
Mà khi về Đất nước mình thì
bắt lên câu hát.
Ca dao, truyện cổ cũng như những dòng sông ấy,
tháng năm vẫn âm vang nhịp sóng trong tâm hồn nghệ sĩ muôn đời. Các nhà văn,
nhà thơ muôn đời vẫn học được nhiều từ ca
dao truyện cổ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét